by Admin
Post on 2023-03-24 23:09:31
DS. CKI Mai Hoài Trang
Trong cuộc sống, chúng ta ai cũng đã từng bị đau: đau đầu, đau răng, đau lung, đau khớp, đau họng, đau do chấn thuơng,... Đây là một cảm giác khó chịu, đôi khi vuợt quá sức chịu đựng. Thế nên, nguời ta phải dùng thuốc giảm đau để loại bỏ hay làm giảm bớt cảm giác này. Do vậy, trên thế giới, thuốc giảm đau là nhóm thuốc đuợc sử dụng nhiều nhất, thông dụng nhất.
Đau có nhiều kiểu, nhiều loại nên thuốc giảm đau cũng rất đa dạng và phong phú, nhung chủ yếu thuộc 3 nhóm chính:
Ngoài ra còn có các nhóm thuốc khác có tác dụng giảm đau nhu:
Thuốc giảm đau đuợc sử dụng rộng rãi và tuơng đối dễ mua vì rất nhiều thuốc giảm đau thuộc loại OTC (không kê đơn) nên sự lạm dụng thuốc rất dễ xảy ra. Do đó, tỉ lệ gặp phải ADR (tác dụng không mong muốn) cũng nhu tử vong do thuốc giảm đau rất lớn. Tại Mỹ, số ca tử vong liên quan đến thuốc giảm đau trong vòng 10 năm qua đã tăng gấp 4 lần lên 15.000 nguời/năm. Ở Việt Nam, với thói quen dùng thuốc không qua bác sĩ thăm khám, tự tăng liều hay giảm khoảng cách giữa các lần dùng thuốc khi chua hết đau cũng khiến tỉ lệ ADR liên quan đến thuốc giảm đau tăng cao. Sau đây là một số tác dụng phụ thuờng gặp của thuốc giảm đau:
Ngoài ra, thuốc giảm đau còn che lấp tạm thời các dấu hiệu của một số căn bệnh khác nhu triệu chứng đau trong viêm ruột thừa cấp, triệu chứng sốt ở bệnh nhân nhiễm Covid 19,... làm cho không thể phát hiện sớm và xử lý kịp thời, gây nguy hiểm cho bệnh nhân.
Vậy nên “CHỚ LẠM DỤNG THUỐC GIẢM ĐAU”.
US.FDA: Khuyến cáo thận trọng khi kê đơn chứa kháng sinh Clarithromycin cho bệnh
nhân có bệnh lý tim
Cơ quan Quản lý Thuốc và Thực phẩm Hoa Kỳ (US.FDA) đã đưa ra khuyến cáo thận trọng khi kê đơn kháng sinh Clarithromycin cho bệnh nhân có bệnh lý tim do có khả năng tăng nguy cơ các vấn đề trên tim hoặc tử vong. Khuyến cáo này dựa trên kết quả thử nghiệm lâm sàng CLARICOR kéo dài 10 năm trên bệnh nhân có bệnh lý mạch vành. Nghiên cứu đã ghi nhận sự gia tăng số trường hợp tử vong ngoài dự đoán ở nhóm những bệnh nhân mắc bệnh lý mạch vành có tiền sử sử dụng Clarithromycin trong 2 tuần.
Nhân viên y tế cần nắm thông tin về nguy cơ của Clarithromycin trên lâm sàng, cân nhắc giữa lợi ích và nguy cơ trước khi kê đơn cho bệnh nhân, xem xét lựa chọn kháng sinh khác thay thế, đặc biệt trên bệnh nhân có bệnh lý về tim kể cả khi điều trị ngắn hạn.
Cần thông tin cho bệnh nhân các triệu chứng có thể gặp trên tim mạch để bệnh nhân báo ngay cho bác sĩ như: đau ngực, nhịp thở ngắn hoặc rối loạn khi thở, đau hoặc yếu một phần cơ thể, nói lắp.
Bộ Y tế Canada đã hoàn thành cuộc điều tra tính an toàn của hydrochlorothiazide và phát hiện ra rằng việc sử dụng thuốc này kéo dài có thể làm tăng nguy cơ ung thư da không tế bào hắc tố, ít nhất gấp bốn lần so với người không sử dụng thuốc này. Ung thư da không hắc tố có thể điều trị dễ dàng nếu được phát hiện sớm.
Hydrochlorothiazide là thuốc được dùng để điều trị tăng huyết áp và phù. Thuốc làm cho da nhạy cảm hơn với bức xạ cực tím và ánh sáng mặt trời.
Bệnh nhân sử dụng hydrochlorothiazide cần được thông báo về nguy cơ tiềm ẩn của thuốc, nên thường xuyên kiểm tra da để kịp thời phát hiện các tổn thương (nốt ruồi, đốm, cục, vết loét), hạn chế tiếp xúc với ánh sáng mặt trời, tránh sử dụng thiết bị chiếu tia UV và bảo vệ da.
Cán bộ y tế cần cân nhắc kỹ giữa lợi ích và nguy cơ, xem xét lựa chọn thay thế hydrochlorothiazide ở những bệnh nhân có nguy cơ cao mắc ung thư da không tế bào hắc tố (da sáng màu, có tiền sử cá nhân hoặc gia đình bị ung thư da hoặc đang điều trị thuốc ức chế miễn dịch).
Ngày 1/5/2019, Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) vừa có thông báo chính thức về việc chấp thuận vaccine Dengvaxia, vaccine đầu tiên phòng ngừa bệnh sốt xuất huyết gây ra bởi tất cả các chủng virus Dengue (chủng 1,2,3 và 4) trên các đối tượng có tuổi từ 9 - 16, những người được chẩn đoán xác định nhiễm virus Dengue và sống trong các vùng có dịch sốt xuất huyết..
Dengvaxia là một loại vaccine sống giảm hoạt lực và được tiêm 3 mũi riêng biệt, mỗi mũi cách nhau 6 tháng. Vaccine này không được khuyến cáo sử dụng trên các đối tượng chưa từng bị nhiễm một trong các chủng của virus Dengue trước đây bởi vì hoạt lực của vaccine có thể làm cho người tiêm chủng khởi phát đợt sốt xuất huyết nặng do chưa từng phơi nhiễm với loại virus Dengue nào trước đó. Nhân viên y tế cần thu thập thông tin của bệnh nhân thật kĩ trước khi tiêm chủng Dengvaxia.
Hiệu quả và độ an toàn của vaccine này đã được xác nhận qua 3 nghiên cứu ngẫu nhiên có đối chứng giả dược trên 35000 người dân sống trong vùng có dịch. Vaccine Dengbaxia đã được cấp phép sử dụng tại 19 quốc gia trên thế giới và Liên minh Châu Âu.
Tác dụng không mong muốn thường gặp nhất được ghi nhận ở những đối tượng sử dụng Dengvaxia là đau đầu, đau cơ và khớp, mệt mỏi, đau ở vị trí tiêm và sốt nhẹ. Tần suất các tác dụng không mong muốn tương tự giữa nhóm Dengvaxia và giả dược, có xu hướng giảm sau mỗi mũi vaccine.
SVD5 Phạm Thị Như Quỳnh, ThS.DS. Phan Đặng Thục Anh
Sai sót trong sử dụng thuốc (Medication error - ME) đã và đang trở thành vấn đề đáng quan ngại trong những năm gần đây. Tại Mỹ, ME là nguyên nhân gây tử vong cho khoảng 7000 bệnh nhân mỗi năm (cả người lớn và trẻ em). Trong khi các bệnh viện tại Anh, tần số xuất hiện và hậu quả gây ra bởi ME tương tự với các báo cáo ghi nhận được tại Mỹ - với sai sót trong kê đơn chiếm 1,5% các đơn thuốc.
Sự khác biệt về các đặc điểm dược động học và dược lực học ở trẻ em đã dẫn đến những điểm sai khác trong sử dụng thuốc ở đối tượng này so với người lớn. Tuy nhiên, thật không may khi có đến 50-90% số thuốc sử dụng chưa được nghiên cứu đầy đủ trên đối tượng trẻ em. Các nghiên cứu về độ an toàn và hiệu quả trước khi thuốc được cấp phép lưu hành đa số đều thực hiện trên người lớn và do đó phần lớn độ an toàn và sự dung nạp thuốc đều được ngoại suy từ đối tượng này.2 Bên cạnh đó, một số thực trạng có thể thấy như nhiều thuốc sử dụng cho trẻ em dưới dạng “off-label” (không có trong chỉ định) hoặc “unlicenced” (không được cấp phép) với rất ít thông tin về liều dùng hợp lý1 hoặc việc thiếu các dạng bào chế phù hợp cho đối tượng trẻ em dẫn đến nhiều sai sót trong việc chỉ định liều và sử dụng thuốc. Việc thiếu các nghiên cứu lâm sàng đã dẫn đến việc chỉ định thuốc thiếu các dữ liệu về độ an toàn và hiệu quả. Do đó điều cần thiết phải xác định các thuốc thật sự được chỉ định trên trẻ em, cũng như lựa chọn dạng bào chế phù hợp.1
Vào năm 2011, cụm từ “Inpropriate Prescribing” (kê đơn không hợp lý) được ra đời, bao gồm các trường hợp:
POPI (Pediatrics: Omission of Prescriptions and Inappropriate prescriptions) là công cụ đầu tiên được ra đời để chỉ ra các trường hợp kê đon không hợp lý và kê đon thiếu sót ở trẻ em dựa trên các hướng dẫn quốc tế và của Pháp với hy vọng nâng cao nhận thức của mọi người về công cụ này và nội dung của nó sẽ được công nhận bởi mạng lưới các chuyên gia y tế làm việc trên lĩnh vực nhi khoa.
POPI đưa ra danh sách các vấn đề sức khỏe thường gặp ở trẻ em tại Bệnh viện Đại học Robert-Debré, AP-HP (Assistance Publique-Hôpitaux de Paris) Paris, Pháp năm 2010, các tiêu chí để lựa chọn danh sách này gồm có: tỷ lệ mắc bệnh, lý do nhập viện, tỷ lệ lưu hành của các bệnh mạn tính. Theo những tiêu chí này, nghiên cứu đã chọn ra các vấn đề cần yêu cầu can thiệp dược và các vấn đề không yêu cầu can thiệp dược (nghĩa là nếu điều trị trong trường hợp này thì được nhận định là chỉ định không hợp lý).
Với từng trường hợp, tiến hành xem xét khuyến cáo điều trị, nguy co sai sót, chống chỉ định, tương tác thuốc - thuốc, tương tác thuốc - bệnh, các vấn đề liên quan đến liều và đường dùng.
Với mỗi bệnh, chiến lược điều trị được chọn từ những khuyến cáo có đầy đủ bằng chứng và xuất bản sau năm 2000. Các dữ liệu được lấy từ các tổ chức hoặc cơ quan chuyên môn ở Pháp, Mỹ và Anh: Cơ quan an toàn các sản phẩm sức khỏe Pháp (French Health Products Safety Agency - ANSM or Agence Franẹaise de Sécurité Sanitaire des Produits de Santé), Thẩm quyền quốc gia Pháp về sức khỏe (French National Authority for Health hoặc Haute Autorité de Santé Franẹaise), Hiệp hội các bác sĩ nhi khoa Pháp (French Society for Pediatricians - Société Franẹaise de Pédiatrie), Viện hàn lâm Nhi khoa Hoa kỳ (American Academy of Pediatrics) và Học viện quốc gia về sức khỏe và các chứng cứ lâm sàng, Cochrane Library (UK). Các cơ sở dữ liệu được sử dụng để thu thập thông tin về thuốc, dạng bào chế sẵn có và tương tác thuốc - thuốc: Thériaque, Micromedex, Lexi-Comp’s Pediatric & Neonatal Dosage Handbook và tạp chí y khoa Pháp ‘La Revue Prescrire’. Cơ sở dữ liệu MEDLINE cũng được sử dụng để tìm kiếm các ví dụ về sai sót trong sử dụng thuốc và kê đơn không hợp lý.
Nghiên cứu sử dụng phương pháp Delphi 2 vòng để đánh giá các đề xuất trong POPI. Mục đích của phương pháp Delphi là đạt được sự thống nhất ý kiến và sự đồng thuận chung ở mỗi chủ đề cụ thể bằng các đặt câu hỏi với các chuyên gia (bác sĩ nhi khoa và dược sĩ) thông qua bảng câu hỏi.
Vòng thứ nhất đưa ra các câu hỏi về các đề xuất trong bản dự thảo POPI. Cách tính điểm của các câu hỏi dựa theo thang đo Likert: từ 1 điểm (hoàn toàn không đồng ý) đến 9 điểm (hoàn toàn đồng ý) và mức độ đồng thuận cuối cùng là điểm trung bình của các chuyên gia. Với các đề xuất có số điểm từ 7-9 với mức độ đồng thuận lớn hơn 65% sẽ tham gia vào vòng thứ 2 và sau vòng thứ 2 các đề xuất có số điểm từ 7-9 với mức độ đồng thuận lớn hơn 75% sẽ được giữ lại.
Bản dự thảo POPI gồm 108 đề xuất: 80 đề xuất về việc chỉ định không hợp lý và 28 đề xuất về chỉ định bị bỏ sót. 108 đề xuất này thuộc về 5 nhóm bệnh thường gặp: tiêu hóa, tai mũi họng và đường hô hấp, da liễu, rối loạn thần kinh và các vấn đề khác. Với từng nhóm bệnh sẽ tiếp tục được chia thành nhóm nhỏ hơn.
Các chuyên gia tham gia đánh giá là bác sĩ nhi khoa và dược sĩ với tỷ lệ 1:1, một nửa các chuyên gia hiện đang làm việc trong các lĩnh vực nội tiết, huyết học, thận tiết niệu, ung thư hoặc hô hấp, số còn lại đang làm việc tại cộng đồng.
Sau khi đánh giá công cụ POPI, 102 đề xuất được đưa ra. Các đề xuất được thống kê trong bảng sau:
CÁC ĐỀ XUẤT THEO CÔNG CỤ POPI
Các bệnh thông thường |
|
Đau và sốt |
Chỉ định không hợp lý
|
Chỉ định bị bỏ sót
|
|
Nhiễm khuẩn đường tiết niệu |
Chỉ định không hợp lý
|
|
|
Vitamin và kháng sinh dự phòng |
Chỉ định không hợp lý • Chỉ định chế phẩm bổ sung Fluoride cho trẻ dưới 6 tháng tuổi |
Chỉ định bị bỏ sót
|
|
Bệnh do côn trùng đốt |
Chỉ định không hợp lý
|
Chỉ định bị bỏ sót
|
Các vấn đề trên hệ tiêu hóa |
|
Buồn nôn, nôn và trào ngược dạ dày, thực quản |
Chỉ định không hợp lý
|
Chỉ định bị bỏ sót • Chỉ định dung dịch bù nước đường uống |
|
Bệnh tiêu chảy |
Chỉ định không hợp lý
|
Chỉ định bị bỏ sót • Chỉ định dung dịch bù nước đường uống |
|
Các vấn đề trên hệ hô hấp |
|
Ho |
Chỉ định không hợp lý
2 tuổi |
|
|
Chỉ định bị bỏ sót • Tiêm chủng vaccine nhắc lại để phòng bệnh ho gà cho người lớn có ý định sinh con trong vài tháng hoặc vài năm tới (chỉ áp dụng cho người đã tiêm chủng horn 10 năm trước).Việc tiêm chủng nhắc lại này cũng nên được đề xuất cho gia đình và những người họ hàng có thể tiếp xúc với trẻ |
|
Viêm tiểu phế quản ở trẻ nhỏ |
Chỉ định không hợp lý
|
Chỉ định bị bỏ sót
|
|
Nhiễm trùng tai mũi họng |
Chỉ định không hợp lý
|
|
|
Chỉ định bị bỏ sót
|
|
Hen phế quản |
Chỉ định không hợp lý
|
Chỉ định bị bỏ sót
|
Các vấn đề về da liễu
Mụn trứng cá |
Chỉ định không hợp lý
|
Chỉ định bị bỏ sót
|
|
Bệnh ghẻ |
Chỉ định không hợp lý • Chỉ định benzyl benzoat (Ascabiol) kéo dài hơn 8 giờ ở trẻ nhỏ và hơn 12 giờ đối với trẻ em và phụ nữ mang thai |
Chỉ định bị bỏ sót
|
|
Bệnh chấy |
Chỉ định không hợp lý • Chỉ định thuốc dạng khí dung cho trẻ nhỏ, trẻ em bị hen phế quản hoặc trẻ có triệu chứng giống hen như khó thở |
Nấm da (Hắc lào) |
Chỉ định không hợp lý • Chỉ định một thuốc khác ngoài griseofulvin để điều trị nấm Microsporum |
Chỉ định bị bỏ sót
|
Bệnh chốc |
Chỉ định không hợp lý
|
Nhiễm virus Herpes simplex |
Chỉ định không hợp lý
|
Chỉ định bị bỏ sót
|
|
Viêm da cơ địa (eczema thể địa) |
Chỉ định không hợp lý
|
Các rối loạn về thần kinh - tâm thần |
|
Động kinh |
Chỉ định không hợp lý
|
Trầm cảm |
Chỉ định không hợp lý
|
Đái dầm |
Chỉ định không hợp lý
|
Chán ăn |
Chỉ định không hợp lý • Chỉ định cyproheptadine (Periactin), clonidine |
Rối loạn giảm chú ý có hoặc không có tăng động |
Chỉ định không hợp lý
|
Chỉ định bị bỏ sót • Theo dõi bảng tăng trưởng (chiều cao và cân nặng) nếu trẻ đang sử dụng methylphenidate |
SVD5 Lê Duy Phúc, ThS.DS. Phan Đặng Thục Anh
Tiêu chuẩn Beers là một danh sách các tiêu chí được đưa ra nhằm cải thiện việc lựa chọn thuốc, giảm các tác dụng không mong muốn của thuốc và cung cấp một công cụ để đánh giá chi phí, mô hình và chất lượng chăm sóc thuốc được sử dụng cho những người từ 65 tuổi trở lên.
Tiêu chí Beers năm 2019 bao gồm 30 loại thuốc hoặc nhóm thuốc cần tránh ở người lớn tuổi nói chung và 40 loại thuốc hoặc nhóm thuốc nên được sử dụng thận trọng hoặc tránh ở một số bệnh nhân mắc một số bệnh hoặc tình trạng nhất định. Hai tiêu chí mới đã được thêm vào để đối phó với cuộc khủng hoảng opioid ngày càng tồi tệ - không kê đơn thuốc opioid bằng thuốc benzodiazepin hoặc gabapentinoids.
Tiêu chuẩn mới đã được giảm 08 loại thuốc chống động kinh, 08 loại thuốc trị chứng mất ngủ và thuốc giãn mạch trong ngất do tụt huyết áp. Các loại thuốc này bị loại bỏ do đối tượng được chỉ định sử dụng không chỉ duy nhất đối với bệnh nhân lớn tuổi. Hai thuốc ticlopidine và pentazocine đã bị loại bỏ vì chúng không còn được lưu hành ở Hoa Kỳ.
Xóa khỏi tiêu chí
Thuốc đối kháng thụ thể H2 đã được loại bỏ khỏi các tiêu chí vì bằng chứng cho thấy chúng gây hại ở mức độ yếu cho những người mắc chứng mất trí nhớ. Các loại thuốc làm giảm chứng trào ngược dạ dày, có thể tiếp tục được sử dụng ở những bệnh nhân mắc chứng nhiễu loạn tâm thần.
"Sử dụng thận trọng"
Dextromethorphan/quinidine nên được sử dụng thận trọng vì hiệu quả hạn chế trong việc giảm các triệu chứng về hành vi của chứng mất trí ở bệnh nhân không có chứng nhiễu loạn cảm xúc (PBA) và có khả năng làm tăng nguy cơ té ngã và tương tác thuốc.
Rivaroxaban được sử dụng thận trọng cho bệnh huyết khối tĩnh mạch hoặc rung tâm nhĩ ở bệnh nhân trên 75 tuổi vì nguy cơ xuất huyết tiêu hóa.
Trimethoprim và sulfamethoxazole có thể làm tăng nguy cơ tăng kali máu ở bệnh nhân suy giảm chức năng thận đang dùng thuốc ức chế men chuyển hoặc thuốc ức chế thụ thể Angiotensin.
Carbamazepine, mirtazapine, oxcarbazepine, serotonin, thuốc ức chế tái hấp thu norepinephrine, thuốc ức chế tái hấp thu chọn lọc serotonin, thuốc chống trầm cảm ba vòng và tramadol nên được sử dụng thận trọng bởi vì chúng có thể làm tình trạng bệnh trở nên trầm trọng hơn hoặc gây ra SIADH (hội chứng tăng tiết kháng lợi niệu). Nồng độ natri nên được theo dõi chặt chẽ khi sử dụng các loại thuốc này.
Aspirin nên được sử dụng thận trọng như là một thuốc bảo vệ cơ bản cho các bệnh lý về tim mạch hoặc ung thư đại trực tràng ở bệnh nhân trên 70 tuổi, chứ không phải 80 tuổi, vì dữ liệu mới cho thấy độ tuổi có nguy cơ chảy máu cao đã hạ thấp.
Thuốc ức chế tái hấp thu serotonin và norepinephrine nên được chỉ định thận trọng cho bệnh nhân có nguy cơ bị gãy xương hoặc gãy xương kéo dài.
Những điểm mới khác
Đối với bệnh Parkinson, khuyến cáo trước đây là tránh tất cả các thuốc chống loạn thần, nay đã được sửa đổi để chấp nhận quetiapine, clozapine và pimavanserin.
Đối với suy tim, không nên kê đơn thuốc chẹn kênh calcium loại nondihydropyridine đối với bệnh nhân có phân suất tống máu thấp. Các loại thuốc chống viêm không steroid, chất ức chế COX-2, thiazolidinediones, và dronedaron nên được kê đơn một cách thận trọng ở những bệnh nhân không có triệu chứng suy tim.
Macrolide (trừ azithromycin) hoặc ciprofloxacin không nên kê đơn cùng với warfarin do làm tăng nguy cơ chảy máu.
Ciprofloxacin và theophylline không nên được kê đơn cùng nhau do làm tăng độc tính của theophyline.
Đối với những bệnh nhân bị suy giảm chức năng thận, sử dụng ciprofloxacin có liên quan đến tăng nguy cơ đứt gân và tăng các tác dụng phụ trên hệ thần kinh trung ương. Sử dụng trimethoprim-sulfamethoxazole có nguy cơ làm nặng hơn tình trạng suy thận và tăng kali máu.
Tiêu chuẩn Beers là một công cụ dựa trên bằng chứng được sử dụng như một hướng dẫn về các loại thuốc nên tránh kê đơn ở người cao tuổi. Tuy nhiên, các tiêu chí này không thể thay thế phán đoán lâm sàng hoặc các ưu tiên trên từng bệnh nhân cụ thể, giá trị, mục tiêu chăm sóc và nhu cầu của từng bệnh nhân, cũng không nên sử dụng chúng một cách máy móc hoặc hạn chế việc tiếp cận thuốc. Bác sĩ lâm sàng nên xem xét các tiêu chí này như điểm khởi đầu trước khi kê đơn cho từng bệnh nhân.
Các tiêu chuẩn phát triển từ tiêu chuẩn Beers
Nhiều nghiên cứu cho thấy các thuốc có khả năng kê đơn không phù hợp (PIM) trong tiêu chuẩn Beers có thể dẫn đến những hậu quả tiêu cực như ngã, lú lẫn, gãy xương, suy giảm nhận thức, tử vong. Tránh sử dụng các PIM ở người cao tuổi là một trong những chiến lược nhằm giảm nguy cơ các biến cố nghiêm trọng. Từ khi hình thành đến nay, tiêu chuẩn Beers là một trong những nguồn tham khảo phổ biến nhất về độ an toàn trong kê đơn cho người cao tuổi. Tiêu chuẩn Beers được sử dụng rộng rãi trong lão khoa nhằm các mục đích: cải thiện việc lựa chọn thuốc, giáo dục các bác sĩ và bệnh nhân, giảm các biến cố bất lợi của thuốc và được dùng như một công cụ để đánh giá chất lượng chăm sóc, chi phí và phác đồ điều trị thuốc trong lão khoa.
Mặc dù đã trải qua 6 lần sửa đổi, bổ sung và được sử dụng rộng rãi ở Mỹ và các nước trên thế giới, tiêu chuẩn Beers vẫn còn một số hạn chế như: các thuốc trong danh sách không được sắp xếp theo trình tự nhất định do đó khó sử dụng, thêm nữa tiêu chuẩn Beers không đề cập đến các thiếu sót trong kê đơn và không áp dụng cho các đơn vị chăm sóc giảm nhẹ và chăm sóc cận tử.
DS. Nguyễn Thị Nhật Hiền, DSCKI. Trần Quang Phúc, ThS.DS. Phan Đặng Thục Anh
Gan là cơ quan chính thải trừ thuốc. Tổn thương gan do thuốc (Drug-induced liver injury - DILI) là một vấn đề được nhắc đến khá nhiều với tỷ lệ lên đến 410% các phản ứng có hại do thuốc gây ra, tương ứng 1/100 bệnh nhân gặp tổn thương gan do thuốc trong suốt thời gian nằm viện4. Hầu hết các trường hợp DILI là lành tính và cải thiện sau khi ngừng thuốc. Điều quan trọng là phải nhận ra và ngừng dùng các tác nhân gây bệnh càng sớm càng tốt để ngăn cản sự tiến triển của bệnh.
DILI được phân thành 3 loại khác nhau, tùy thuộc vào giá trị các xét nghiệm ALT, ALP và tỉ lệ R* = (ALT/N1)/(ALP/N2) (N1, N2 là giới hạn trên bình thường tương ứng của các xét nghiệm ALT, ALP, N1 = 40 U/L, N2 = 120 U/L)
Bảng 1: Phân loại tổn thương gan do thuốc
Loại 1 |
Loại 2 |
Loại 3 |
Tổn thương tế bào gan |
Tổn thương mật |
Tổn thương gan hỗn hợp (gan và mật) |
ALT > 2N1 |
ALP > 2N2 |
ALT > 2N1 và ALP tăng, với |
hoặc R > 5 |
hoặc R < 2 |
2 < R < 5 |
*: giá trị R có thể thay đổi trong quá trình theo dõi tổn thương gan vì giá trị ALT, ALP thay đổi
2. Cơ chế 5
DILI có thể là kết quả của độc tính trực tiếp từ thuốc sử dụng hoặc các chất chuyển hóa của chúng hoặc tổn thương qua trung gian miễn dịch. Thuốc chuyển hóa chủ yếu ở gan có nhiều khả năng dẫn đến DILI.
Hướng dẫn thực hành lâm sàng của Trường Tiêu hoá Hoa Kỳ năm 2014 cũng đã đề cập đến các nhóm thuốc thường gây DILI và thời gian từ khi dùng thuốc đến khi có DILI (thời gian tiềm tàng)
Bảng 2: Các thuốc gây tổn thương gan2
Nhóm thuốc |
Thuốc |
Thời gian tiềm tàng* |
Loại DILI** |
||||||
Kháng sinh |
Amoxicilin/Clavulanic |
Ngắn đến trung bình |
1 |
rTM, |
có thể |
TTTBG |
|
||
Isoniazid |
Trung bình đến dài |
|
TTTBG |
cấp tính |
|||||
Trimethoprim/Sulfamethoxazol |
Ngắn đến trung bình |
1 |
rTM, |
có thể |
TTTBG |
|
|||
Fluoroquinolon |
Ngắn |
|
tttbG, TT |
TTM HH |
hoặc |
||||
Macrolid |
Ngắn |
|
TTTBG hoặc |
TTM |
|||||
Minocyclin |
Trung bình đến dài |
|
tttBB |
|
|||||
|
|
||||||||
Thuốc chống động kinh |
Phenytoin |
Ngắn đến trung bình |
|
tttbG, TT |
TTM HH |
hoặc |
|||
Carbamazepin |
Trung bình |
TTTBG hoặc TTHI |
TTM hoặc H |
||||||
Valproat |
Trung bình đến dài |
|
TTTBG |
||||||
Thuốc giảm đau |
Acetaminophen, NSAIDs |
Trung bình đến dài |
|
TTTBG |
|||||
Thuốc điều hòa miễn dịch |
Interferon a |
Trung bình |
|
TTTBG |
|||||
Interferon p |
Trung bình đến dài |
|
TTTBG |
||||||
Thuốc kháng TNF |
Trung bình đến dài |
|
TTTBG |
||||||
Thuốc khác |
Methotrexat (uống) |
Dài |
Gan nhiễm mỡ hoặc xơ hóa |
|
Allopurinol |
Ngắn đến trung bình |
|
TTTBG hoặc TTHH |
|
Amiodaron (uống) |
Trung bình đến dài |
|
TTTBG, TTM hoặc TTHH |
|
Ức chế bơm proton (PPI) |
Ngắn |
TTTBG |
* Thời gian tiềm tàng (thời gian từ khi dùng thuốc đến khi ghi nhận biến cố): ngắn = 3 -
30 ngày, trung bình = 30 - 90 ngày, dài > 90 ngày
SVD5 Nguyễn Thị Thảo Uyên, DS. Nguyễn Thị Thanh Hòa, DSCKI. Lê Văn Quang
Mang thai là một tình trạng sinh lý đặc biệt, khi mà việc điều trị thuốc cần sự cân nhắc kĩ càng bởi vì những thay đổi trong thai kì ảnh hưởng rất nhiều đến dược động học của thuốc đang sử dụng cũng như một số thuốc có thể ảnh hưởng hoặc gây độc cho bào thai. Dừng các liệu pháp điều trị bằng thuốc ở phụ nữ có thai (PNCT) đôi khi không thể thực hiện và nguy hiểm do một số phụ nữ có thai khi mắc các bệnh mạn tính như hen, động kinh, tăng huyết áp, ... đòi hỏi phải dùng thuốc liên tục. Những lo ngại về sử dụng thuốc cho PNCT chịu ảnh hưởng từ những sự kiện lịch sử, bao gồm thảm họa thalidomide vào những năm 1960 và độc tính gây quái thai liên quan do diethylstilboestrol năm 1971. Những sự kiện này khiến FDA đưa ra những kiểm soát nghiêm ngặt về nhãn thuốc, sử dụng thuốc trong thai kì, cũng như yêu cầu những bằng chứng về độ an toàn, hiệu quả của bất kì thuốc nào trước khi chấp thuận.[1]
I. Ảnh hưởng của thuốc lên các giai đoạn thai kỳ
Việc dùng thuốc trong giai đoạn nào của thai kỳ đóng vai trò đặc biệt quan trọng để xác định liệu một thuốc có an toàn khi sử dụng cho PNCT hay không. 8 tuần đầu tiên sau khi thụ thai, đặc biệt là từ tuần thứ 3-8, chính là giai đoạn phát triển các cơ quan trong cơ thể thai nhi. Mỗi cơ quan đang phát triển cần phải trải qua một hoặc nhiều quá trình quan trọng trong suốt giai đoạn này, do vậy những ảnh hưởng lên các quá trình này có thể dẫn đến dị tật bẩm sinh. Phần lớn các dị tật ở trẻ sơ sinh đã xảy ra trước khi kết thúc tuần thứ 8 của thai kỳ. Tuy nhiên, dị tật trên bộ phận sinh dục của thai nhi có thể xảy ra trong tuần thứ 8-12 của thai kỳ. Não bộ tiếp tục phát triển sau 8 tuần đầu tiên, phần lớn các neuron của vỏ não được hình thành trong suốt tuần thứ 8-16 của thai kỳ.8
Việc sử dụng thuốc vào 3 tháng giữa và 3 tháng cuối của thai kỳ được cho là không gây dị tật bẩm sinh bởi vì giai đoạn phát triển cơ quan đã qua nhưng thuốc có thể làm thay đổi nghiêm trọng các chức năng trong cơ thể, có thể dẫn đến tử vong ở thai nhi. Mối quan tâm lớn nhất về độ an toàn của thuốc đó là những tác dụng của thuốc trên người mẹ cũng có thể ảnh hưởng tương tự cho thai nhi.8
Cơ chế gây dị tật do thuốc chưa biết rõ, có thể là do:
II. Các thuốc chống chỉ định trên PNCT
Bảng dưới đây mô tả những thuốc có độc tính gây quái thai thường chống chỉ định trên PNCT.[2-7]
Nhóm thuốc |
Thuốc |
Tác dụng không mong muốn |
Thời gian nguy cơ |
Vitamin và khoáng chất |
Vitamin A liều cao (> 25 000 IU) Dẫn xuất của vitamin A như isotretinein, etretinate. |
Các khiếm khuyết có thể xảy ra ở thai nhi bao gồm các khiếm khuyết ở thần kinh trung ương, khiếm khuyết sọ và mặt, khiếm khuyết tim mạch, khiếm khuyết tuyến ức, khiếm khuyết hỗn hợp. |
Suốt thai kì |
Vitamin D liều cao |
Tăng calci máu ở mẹ và bé |
Suốt thai kì |
|
Thuốc gây độc tế bào |
Busulphan Cyclophosphamide Methotrexate |
Các dị tật bẩm sinh như phát triển chậm, hàm dưới kém phát triển, hở hàm ếch, xương sọ phát triển bất thường, dị tật cột sống, dị tật tai và chân vẹo. |
Suốt thai kì |
Thuốc ức chế miễn dịch |
Thalidomide |
Ngắn hoặc không có xương dài của chi và nhiều dị tật bên trong |
3 tháng đầu thai kì |
Thuốc tim mạch |
Thuốc ức chế men chuyển - ACEIs |
Tổn thương thận (vô niệu, giảm sản phổi, co rút chi, thiểu sản xương sọ, chết non và tử vong ở trẻ sơ sinh) |
Suốt thai kì, nhất là 3 tháng giữa và 3 tháng cuối thai kì |
|
Thuốc ức chế thụ thể Angiotensin - ARBs |
Tổn thương thận tương tự ACEIs Các độc tính trên thai nhi có thể bao gồm vô niệu, thiểu ối, giảm sản xương vòm sọ thai nhi, thai chậm tăng trưởng trong tử cung (IUGR), sinh non, và còn ống động mạch. Thiểu ối liên quan đến thiểu niệu có thể gây ra co rút chi ở thai nhi, biến dạng sọ mặt và giảm sản phổi. |
Suốt thai kì, nhất là 3 tháng giữa và 3 tháng cuối thai kì |
Chế phẩm tuyến giáp |
Methimazole Carbimazole |
Cường giáp |
Suốt thai kì |
Thiamazole |
Cường giáp, bướu giáp |
||
lod phóng xạ |
Nhược giáp, bướu giáp bẩm sinh |
||
Thuốc chống đông |
Warfarin |
Sử dụng thuốc trong ba tháng đầu của thai kỳ gây giảm sản cầu mũi, loạn sản sụn; được gọi là hội chứng Warfarin thai nhi. Sử dụng trong ba tháng giữa và ba tháng cuối của thai kỳ có liên quan đến tăng nguy cơ dị tật thai nhi như dị dạng thần kinh trung ương. |
Suốt thai kì |
Hormone và các chất tổng hợp |
Estrogen Androgen |
Dị tật đường sinh dục |
Suốt thai kì |
Cyproterone Danazol |
Nam hóa cơ quan sinh dục ngoài của bào thai nữ khi phơi nhiễm với thuốc trong suốt thai kỳ, gây ra phì đại âm vật và môi lớn. |
Suốt thai kì |
|
Thuốc chống viêm |
Aspirin và NSAIDs |
Chậm chuyển dạ, đóng ống động mạch sớm, vàng da, tổn thương não ở thai nhi và các vấn đề chảy máu ở phụ nữ trong & sau khi sinh và ở trẻ sơ sinh. |
3 tháng cuối thai kì |
Kháng sinh |
Tetracycline |
Đổi màu răng, khiếm khuyết răng, ảnh hưởng phát triển xương |
Suốt thai kì, đặc biệt sau tuần thứ 15 |
|
Chloramphenicol |
Hội chứng xám ở trẻ |
Suốt thai kì |
Ciprofloxacin |
Bệnh khớp cấp tính ở các khớp chịu sức nặng của cơ thể. |
Suốt thai kì |
|
Kanamycin Streptomycin |
Gây độc thần kinh số 8, tổn thương tai dẫn đến điếc |
Suốt thai kì |
|
Thuốc chống nấm |
Griseofulvin |
Gây dị tật bẩm sinh |
Suốt thai kì |
Fluconazole |
Dị tật sọ, xương và tim (hội chứng Antley-Bixler) |
3 tháng đầu thai kì |
|
Thuốc chống động kinh |
Carbamazepine |
Dị tật ống thần kinh |
3 tháng đầu thai kì |
Phenytoin Phenobarbital |
Hội chứng Hydantoin - bào thai |
Suốt thai kì |
|
Trimethadione |
Nhiều bất thường bẩm sinh, tăng nguy cơ sẩy thai |
Suốt thai kì |
|
Sodium valproate |
Dị dạng ống thần kinh, tim và chi |
Suốt thai kì |
|
Thuốc chống lo âu |
Diazepam |
Trầm cảm thần kinh trung ương kéo dài với thai nhi có thể xảy ra, với các triệu chứng như an thần nhẹ, giảm trương lực cơ, nín thở, giảm chuyển hóa do stress, hội chứng trẻ mềm nhũn (floppy infant) |
Suốt thai kì |
Thuốc chống trầm cảm |
Lithium |
Bất thường Ebstein, độc tính cho trẻ sơ sinh 3 tháng cuối thai kì |
3 tháng đầu thai kì |
Paroxetine |
Tăng nguy cơ dị tật tim khi tiếp xúc trong 3 tháng đầu. Tăng áp phổi dai dẳng ở trẻ sơ sinh. Não phẳng, dị tật dính khớp sọ sớm, thoát vị rốn. |
Suốt thai kì |
|
Thuốc hạ đường huyết đường uống |
Chlorpropamide Tolbutamide |
Hạ đường huyết rất thấp ở trẻ sơ sinh |
Suốt thai kì |
Thuốc tiêu hóa |
Misoprostol |
Hội chứng Mobius (liệt mặt 2 bên) |
3 tháng đầu thai kì |
Thuốc giảm sự thèm ăn |
Amfepramone Clobenzorex Fenproporex Mefenorex Norpseudoephedrine Phentermine Phenylpropanolamine |
Dị tật ống thần kinh |
Suốt thai kì |
Thuốc ngoài da |
Finasteride Minoxidil |
Dị tật bẩm sinh |
Suốt thai kì |
Bất kì quyết định kê đơn cho PNCT nào đều cần cần nhắc kĩ nhiều yếu tố, bao gồm: độ tuổi của thai, đường dùng, tốc độ hấp thu của thuốc, thuốc có đi qua nhau thai hay không, liều thấp nhất có hiệu quả, trọng lượng phân tử của thuốc, đơn trị hay đa trị, thậm chí là kiểu gen của mẹ. Những nguy cơ tiềm tàng cho thai nhi hoặc trẻ sơ sinh là yếu tố quan trọng hơn cả. Điều không kém phần quan trọng là đánh giá nguy cơ thuốc sử dụng có thể gây hại cho mẹ. Do đó, câu hỏi cần được đưa ra là “Liệu lợi ích có lớn hơn nguy cơ hay không?” 4
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Shehata, H. A. and Nelson-Piercy, C. (2001), "Drugs in pregnancy. Drugs to avoid", BestPract Res Clin Obstet Gynaecol. 15(6), pp. 971-86.
[1] Stefan David and James P Hamilton, Drug-induced Liver Injury, 2010 Jan 1; 6: 73-80